Trong kinh Tăng Chi Bộ I, bài kinh Hội Chúng, đức Phật dạy, đại ý như sau:
“Có hai loại hội chúng. Thế nào là hai? Hội chúng bất hòa và hội chúng hòa hợp. Thế nào là hội chúng bất hòa? Tại hội chúng nào các tỳ kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, đây gọi là hội chúng bất hòa.
Thế nào là hội chúng hòa hợp? Tại hội chúng nào các tỳ kheo hòa hợp, hòa kính, không có đấu tranh, hòa hợp như sữa với nước, sống nhìn nhau bằng cặp mắt từ ái. Đây gọi là hội chúng hòa hợp.
Trong hai hội chúng, hội chúng hòa hợp là tối thắng”.
Bản thể của Tăng già là thanh tịnh hòa hợp. Tại sao lại có hội chúng bất hòa và hội chúng hòa hợp? Đó là do hội chúng có tu tập hay không có tu tập. Hội chúng bất hòa có các tỳ kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau bằng binh khí miệng lưỡi. Hội chúng có tu tập thì các tỳ kheo hòa hợp, hòa kính, không đấu tranh, hòa hợp với nhau như sữa với nước, sống nhìn nhau bằng cặp mắt từ ái.
Đức Phật nói hội chúng bất hòa ở chỗ cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, đây là khẩu nghiệp. Thế nhưng, cái miệng mình không thể tự nhiên luận tranh, đấu tranh, hơn thua, mà do nhiều yếu tố tạo tác: ý không hòa sẽ dẫn đến khẩu không hòa; thân không hòa cũng dẫn đến khẩu không hòa; giới không hòa cũng dẫn đến khẩu không hòa. Không phải tự nhiên mà mình cãi nhau, hơn thua nhau mà do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Chẳng hạn, bốn người sống chung trong một phòng, người ở sạch, người ở dơ, đó là thân không hòa. Người thì ngày nào cũng quét dọn, người thì không quét dọn, đó là thân không hòa. Đến giờ đi ngủ, mình nói chuyện ồn ào làm ảnh hưởng đến người khác, đó cũng là thân không hòa. Sống chung với nhau, nhưng mình không tôn trọng người khác, dẫn đến ý không hòa; ý không hòa dẫn đến khẩu không hòa.
Kiến không hòa nghĩa là lúc nào cũng cho mình hiểu biết, là đúng, là phải, là hay, là giỏi và xem người khác không ra gì, dần dần dẫn đến bất hòa. Mỗi người có trình độ nhận thức khác nhau, hoàn cảnh sinh ra và lớn lên khác nhau, sở học và sở hành cũng khác nhau; vì thế người này sẽ có những góc nhìn và quan điểm dị biệt với người kia, không ai hoàn toàn giống ai. Chúng ta không thể áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác, bắt mọi người phải theo ý mình. Khi sống trong môi trường tập thể, chúng ta phải tuân thủ nội quy và giới luật. Còn những hiểu biết cá nhân thì tự mình cảm nghiệm, đủ duyên thì chia sẻ những hiểu biết cho mọi người, ai hiểu hay đón nhận được thì tốt, không cũng chẳng sao. Không phải chúng ta tự xem mình hiểu biết nhiều mà sinh tâm khinh thường người khác, dẫn đến ý không hòa, mà ý không hòa thì khẩu đấu tranh, cạnh tranh, hơn thua.
Lợi không hòa cũng dẫn đến khẩu chiến. Trong một tập thể, mọi quyền lợi đều phải được san sẻ bình đẳng và công bằng đến các thành viên thì tập thể mới có thể tồn tại lâu dài. Người được lợi nhiều, người ít, người hơn, người kém, trước sau gì cũng sẽ xảy ra chuyện mâu thuẫn, xích mích. Tuy nhiên, đôi lúc lợi hòa phải được tính toán trên những yếu tố khác nhau, tùy theo công sức mỗi cá nhân bỏ ra thế nào, chẳng hạn như những người làm công, người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, hoặc tùy theo trình độ và tầm ảnh hưởng đối với công việc. Thí dụ, lương của một ông giám đốc phải khác với người lao công. Nếu mình nói “lợi hòa đồng quân”, ai cũng giống nhau sẽ không có sự công bằng, anh làm nhiều thì hưởng lương nhiều, anh làm ít thì hưởng lương ít. Người làm ít mà hưởng nhiều hoặc bằng người đã bỏ nhiều công sức sẽ dẫn đến đấu tranh, đó là bất công chứ không phải là công bằng.
Từ trước đến nay, vấn đề tứ sự cúng dường cho chư Tăng trong chùa mình đều bình đẳng, không phân biệt người nào lớn, người nào nhỏ, tu nhiều hay tu ít, mới tu hay lâu năm, khi nhận được phẩm vật cúng dường thì chia đều cho quý thầy, quý chú.
Trước đây, chùa chúng ta có các cụ dưỡng lão. Mỗi lần, những đoàn từ thiện ghé đến tặng quà mà thiếu sót phần của bà cụ nào, thì một lúc sau bà lên đấu tranh đòi cho bằng được. Ngày trước, sau những Khóa tu Phật thất, chùa thường gửi tặng kinh sách, băng đĩa cho các Phật tử về dự tu. Một thời gian sau, các Phật tử trong chùa cũng xin, thấy người này có, người kia cũng muốn, nhưng lấy về chẳng biết để làm gì, nhiều cụ đâu biết chữ, người biết chữ thì già cả mắt mờ không đọc được. Trong chùa, các cụ không có đầu đĩa riêng, lấy gì bỏ đĩa vào xem, nhưng người ta có thì mình cũng có. Chỉ những chuyện nhỏ nhặt như vậy là mình thấy đã có đấu tranh, khẩu chiến rồi.
Nếu giới không hòa cũng dẫn đến lời nói không hòa, vì sao? Trong hội chúng cần phải có nội quy và giới luật, nếu người này chấp hành mà người kia không chấp hành sẽ gây ra sự bất hòa. Người làm không hết việc, trong khi đó có người chỉ ngồi chơi; người lên chùa tụng kinh, còn người khác lại đi ngủ; người này có tu, người kia lại không tu; có người giữ giới, lại có người không giữ giới; có người tuân theo nội quy, lại có người không tuân theo nội quy, từ đó mà tạo nên bất hòa. Khi một người nào đó phạm giới thì sẽ ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Không phải tự nhiên mà trong một hội chúng, các tỳ kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, những tranh cãi bất hòa đến từ năm nguyên nhân chính, đó là: ý không hòa, thân không hòa, kiến không hòa, lợi không hòa và giới không hòa. Khi tinh thần lục hòa do đức Phật dạy không được thực hiện, hội chúng sẽ không có sự an lạc, hòa hợp và mất đi sự thanh tịnh. Nếu các thành viên trong hội chúng sống đúng theo tinh thần lục hòa thì hội chúng sẽ có được hạnh phúc, an lạc.
Bản thể của Tăng già là thanh tịnh, hòa hợp. Khi mình tu tập, phải cố gắng tạo ra sự thanh tịnh, hòa hợp mới được an lạc, hạnh phúc. Để có thể chung sống với nhau một cách hòa hợp, mỗi người phải tự mình tu tập, giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thật thanh tịnh. Muốn khẩu không có đấu tranh, thân không hành động ác thì tâm ý phải thanh tịnh. Khi tâm ý thanh tịnh thì lời nói thanh tịnh và hành động thanh tịnh; tâm ý không thanh tịnh thì lời nói cũng như hành động sẽ không thanh tịnh.
Trong xã hội nói chung và hội chúng nói riêng, muốn được an lạc, hạnh phúc thì phải có sự hòa hợp. Hòa là gốc của sự an lạc, hạnh phúc. Sở dĩ thế giới này vẫn còn chiến tranh, đau khổ là do không có hòa hợp; gia đình bất hạnh vì không có hòa hợp; hội chúng tu hành không có thanh tịnh, an lạc cũng vì không hòa hợp. Vậy muốn hòa, mọi người phải tự tu và tôn trọng lẫn nhau. Đặc biệt, đức Phật dạy sáu pháp hòa kính: Thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân, giới hòa đồng tu. Chúng ta tu tập giữ gìn sáu pháp hòa kính này sẽ đưa đến hòa hợp, bản thân có được an lạc, hạnh phúc và hội chúng cũng có được hạnh phúc, an lạc.