Vừa qua, thầy đọc được một câu chuyện ngụ ngôn rất hay trong cuốn Cổ học tinh hoa. Câu chuyện này chính là bài học quý giá cho chúng ta trong vấn đề đối nhân xử thế, nhất là về lời ăn tiếng nói hàng ngày. Vì chỉ qua lời nói mà người ta có thể yêu hay ghét mình. Câu chuyện có đại ý như sau:
“Chim cú mèo gặp chim gáy. Chim gáy hỏi: “Chị sắp đi đâu đấy?”. Cú mèo nói: “Tôi sắp chuyển qua phương Đông ở”. Chim gáy hỏi: “Vì sao mà chị lại đi như thế?”. Cú mèo trả lời: “Ở đây người ta nghe tôi kêu ai cũng ghét, cho nên tôi phải dời đi chỗ khác”. Chim gáy nói: “Chị nên đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ không đổi tiếng kêu, thì sang phương Đông, người ta nghe tiếng kêu cũng lại ghét chị mà thôi, vì nhân tình đâu mà chẳng thế. Theo như ý tôi, thì chị nên rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là tốt hơn hết”.
Câu chuyện ngụ ngôn này quả là ý nghĩa và sâu sắc. Chim cú mèo là loài chim dữ, mắt như mắt mèo đêm, chuyên đi bắt các chim nhỏ và chuột để ăn. Người ta cho rằng nó xuất hiện ở đâu là mang điềm xui đến đó, nên mỗi lần nó cất tiếng kêu lại khiến người ta sợ hãi, lấy gạch ngói, đất đá ném để xua đuổi. Thật vậy, nếu ban đêm quý vị nghe tiếng kêu của chim cú mèo sẽ cảm thấy rất chói tai và ghê sợ. Còn chim gáy có lẽ là loài chim hót hay, nên khi cất tiếng ai nghe cũng hoan hỷ thích thú. Chim cú mèo vì tiếng kêu rùng rợn nên xuất hiện ở đâu cũng bị người ta ném đá xua đuổi. Nó nghĩ khi chuyển qua phương Đông sống sẽ không còn ai ghét bỏ và xua đuổi. Trước khi đi, nó đến gặp chim gáy để chào tạm biệt. Chim gáy liền hỏi nó tại sao lại rời đi. Chim cú mèo trả lời là ở đây mỗi lần nó cất tiếng kêu, ai ai cũng ghét nên nó phải tìm một nơi khác. Chim gáy nghe xong liền khuyên nó nên sửa tiếng kêu hoặc đừng kêu nữa, nếu vẫn tiếp tục kêu giọng đó thì ở đây bị người ta xua đuổi, qua phương Đông người ta cũng sẽ đuổi thôi, vì nhân tình ở đâu cũng thế. Câu chuyện ngụ ngôn này rất hay, đáng là bài học quý giá cho chúng ta trong việc đối nhân xử thế. Theo thầy nghĩ, chim cú mèo trong câu chuyện ám chỉ cho những người hay nói thô lỗ, nói ác, nói chửi bới, nói đâm thọc, nói bươi móc, nói xuyên tạc, nói vu khống người khác. Những người có lời nói như thế thì ở đâu ai cũng sợ, cũng ghét, cũng xa lánh, cũng nguyền rủa. Dù họ trốn sang Mỹ hay các nước phương Tây, người ta cũng ghét thôi! Muốn người ta không ghét bỏ, không sợ hãi, không xa lánh, không nguyền rủa thì nên nghe lời khuyên của chim gáy là sửa đổi lời nói của mình hoặc im lặng là tốt hơn. Lúc đó, dù mình ở phương Đông hay phương Tây, ở Việt Nam hay ở Mỹ thì người ta cũng thương. Còn nếu mình vẫn giữ giọng điệu dạy đời, chửi bới, xúc phạm người khác thì dù mình đi đâu, làm gì người ta cũng sẽ nguyền rủa và ghét bỏ. Cho nên người xưa có câu:
Hoặc:
Trong cuộc sống, có người cho rằng mình cần phải lên án, đẩy lùi cái ác và bảo vệ, tuyên dương cái thiện vì chính nghĩa, vì Nhân dân. Người nào dám nghĩ, dám làm như vậy chính là người hùng của nhân loại. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó không phải là việc dễ dàng, đòi hỏi mình phải hết sức khéo léo, tế nhị. Không dễ gì khi thấy người khác làm sai, mình vạch mặt chỉ tên công kích mà họ có thể thay đổi được thói hư tật xấu. Ngay như con cái làm sai, mình la rầy trách mắng có khi nó còn oán thù mình, huống gì là người ngoài xã hội. Nếu họ làm sai, chúng ta muốn làm người hùng, vì chính nghĩa thì gặp họ mà khuyên. Không nên công kích, chửi bới, thóa mạ người khác trên các phương tiện truyền thông. Đó không phải là việc làm của người trí, không phải là người có văn hóa, đạo đức. Mình muốn tốt cho người ta, muốn họ sửa đổi lỗi lầm hay là muốn chà đạp, bức hại họ. Xây dựng và đập phá là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chúng ta muốn xây dựng hay muốn đập phá? Nếu muốn xây dựng thì mình phải khéo léo, tế nhị và hành xử có văn hóa, đạo đức, không nên hành xử theo lối giang hồ.
Câu chuyện Khéo can được vua cũng trong cuốn Cổ học tinh hoa rất đáng để chúng ta suy ngẫm về cách chuyển hóa người xấu, thầy xin tóm tắt như sau:
“Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý giao cho một người chăn nuôi. Một hôm, con ngựa đột nhiên lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là người chăn nuôi giết chết ngựa của mình nên sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Lúc đó, Án Tử đang ngồi chầu liền ngăn lại và hỏi Vua rằng: “Thưa Đại vương, Vua Nghiêu, Vua Thuấn ngày xưa phanh thây người thì bắt đầu từ đâu trước?”. Vua Cảnh Công ngơ ngác nhìn rồi nói: “Thôi hãy đem hắn giam xuống ngục để rồi sau sẽ trị tội”. Án Tử nói: “Tên này chưa biết rõ phạm tội gì mà phải chịu chết, như vậy vẫn tưởng là oan cho hắn. Tôi xin vì Vua kể rõ tội của hắn, sau đó hạ ngục cũng không muộn”. Vua nghe có lý nên đồng ý. Án Tử bèn kể tội người nuôi ngựa: “Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết, là một tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quý của Vua, là hai tội đáng chết. Để Vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán Vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh Vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi người dân đem lòng oán giận, nước ngoài chê trách dòm ngó, là ba tội đáng chết. Ngươi đã biết chưa? Bây giờ, hãy tạm giam ngươi vào ngục”. Vua Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng: “Thôi, tha cho nó! Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân”.
Chuyện khéo can được Vua của Án Tử quả thật bi trí dũng. Án Tử đang ngồi chầu Vua Cảnh Công thì được quân báo là con ngựa quý của Vua bị chết. Khi nghe như vậy, vì quá thương con ngựa của mình, Vua tức giận đổ hết tội lỗi cho người nuôi ngựa và ra lệnh đem hắn ta đi phanh thây. Án Tử thấy Vua vì nóng giận mà ra lệnh giết người vô tội một cách tàn ác nên đã tìm cách can ngăn. Trong trường hợp này, việc khuyên Vua khó hay dễ? Cực kỳ khó, nếu không khéo, mình thương người mà trở thành tự hại mình. Ngày xưa, mỗi lần Vua tức giận thì không ai dám ý kiến khuyên ngăn vì sợ liên lụy, sợ mất mạng. Nếu Án Tử không có lòng thương, tức là thiếu tâm bi; không sáng suốt, tức là thiếu trí tuệ; và không sợ chết, tức là sự dũng mãnh thì khó có thể dám can ngăn Vua lúc đó. Nhờ có bi trí dũng mà Án Tử đã nghĩ ra một cách đầy trí tuệ khiến Vua từ bỏ ý định giết người vô tội. Chúng ta nên học cách chuyển hóa người xấu bằng tinh thần bi trí dũng như vậy mới là người hiền trí có đạo đức, có văn hóa và có tình thương. Đúng là một lời nói có thể cứu người, một lời nói cũng có thể giết người là vậy.
Trong cuốn Thẳng nét mực tàu của Hòa thượng Thích Giác Huệ có câu chuyện, đại ý như sau: “Một hôm, chủ nhà bảo gia nhân ra chợ mua miếng thịt ngon nhất trong con heo. Gia nhân suy nghĩ rồi ra chợ mua cái lưỡi đem về. Ăn xong chủ nhà khen ngon. Hôm sau, ông chủ cũng bảo gia nhân ra chợ mua, nhưng lại bảo lựa miếng thịt nào không ngon nhất trong con heo. Gia nhân suy nghĩ một hồi rồi cũng ra chợ mua cái lưỡi. Thấy vậy, chủ nhà ngạc nhiên hỏi: “Tại sao hôm qua tôi bảo anh mua miếng thịt ngon nhất, anh mua cái lưỡi. Còn bữa nay tôi bảo anh mua miếng thịt không ngon nhất, anh cũng mua cái lưỡi là sao?”. Gia nhân liền trả lời: “Kính thưa gia chủ, cái lưỡi tuy một nhưng công dụng tới hai. Hôm qua con mua cái lưỡi ngon, là vì cái lưỡi ấy nói toàn lời lành lẽ phải. Cái lưỡi hôm qua là một lời nói đúng đắn tốt đẹp, vạn người trọng dụng. Cái lưỡi hôm qua “nhất ngôn nhi khả dĩ hưng bang”, nghĩa là một lời nói làm cho nước nhà hưng thịnh”.
Ông chủ hỏi: “Còn cái lưỡi hôm nay?”. Gia nhân trả lời: “Kính thưa gia chủ, cái lưỡi hôm nay không ngon vì nó nói toàn những lời tội lỗi, ác độc, sai quấy. Gia đình ly tán, huynh đệ tương tàn, nhân loại điêu đứng cũng vì nó. Đến đây nói chuyện đằng kia, đến đằng kia nói chuyện ở đây, đòn sóc, đâm thọc hai đầu cũng do cái lưỡi hôm nay. Cái lưỡi hôm nay chính là “nhất ngôn nhi khả dĩ tán bang”, nghĩa là một lời nói tan nhà hại nước. Cái lưỡi hôm nay nói lời không đứng đắn, vạn sự chẳng thành”.
Tuân Tử cũng có bài nói về tu thân rất hay: “Thấy người hay thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi. Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có điều dở thì phải cố mà trừ đi. Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch, hại ta vậy. Cho nên người quân tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn… như thế dù muốn không hay cũng không được. Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê… Như thế thì dù muốn không dở cũng không được”.
Tóm lại, câu chuyện chim cú mèo và chim gáy đã giúp chúng ta nhìn nhận thêm một khía cạnh về cách đối nhân xử thế. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ở đời không phải tự nhiên mà người ta thương hay ghét mình. Chúng ta phải đặt câu hỏi tại sao người ta thương và tại sao người ta ghét? Xét cho cùng, ghét hay thương đều do mình cả. Nếu hàng ngày mình có ý nghĩ tốt, lời nói tốt, hành động tốt với người thì người sẽ yêu thương mình. Còn mình có ý nghĩ ác, lời nói ác, hành động ác với người thì người sẽ thù ghét mình. Sở dĩ, người ta ghét chim cú mèo là vì tiếng kêu khó nghe. Nếu nó thay đổi tiếng kêu hoặc đừng kêu nữa thì người ta cũng sẽ thương. Còn nếu không thay đổi tiếng kêu thì dù ở phương Đông hay phương Tây, người ta cũng sẽ ghét bỏ và xua đuổi. Con người cũng vậy, nếu biết nói lời nhẹ nhàng, hòa nhã, yêu thương, tốt đẹp, xây dựng thì dù mình ở đâu người ta cũng thương. Còn nói lời ác, thô lỗ, phỉ báng, đâm thọc, vung khống thì dù qua Mỹ hay phương Tây, người ta cũng ghét. Trong Chơn lý Luật nghi khất sĩ, có đoạn:
Nếu nói được như thế thì ai cũng thương yêu quý mến. Chúng ta cố gắng ghi nhớ bài học từ câu chuyện chim cú mèo và chim gáy này để mà đối nhân xử thế, chắc chắn sẽ thành công. Trong Hàn thi ngoại truyện có một câu rất hay, mong đại chúng cố gắng thuộc: “Chim mà mỏ quắp thì loài chim sợ. Cá mà mồm ngoáp thì loài cá sợ. Người mà ngọn lưỡi sắc sảo thì loài người sợ”.