Ai Đúng Ai Sai?

Có một Phật tử gửi thư về chùa trình bày: “Vừa rồi, chúng con có nghe thầy trả lời về sự việc tại tịnh thất Bồng Lai và cảm thấy rất hay. Kính thưa thầy, chúng con muốn nghe thầy nói về một việc khác đang được dư luận rất quan tâm, đó là câu chuyện giữa bà Nguyễn Phương Hằng - Giám đốc điều hành khu du lịch Đại Nam với lương y Võ Hoàng Yên. Theo thầy, vấn đề này nên được nhìn nhận như thế nào? Nhân quả báo ứng của lời nói ác ra sao? Kính mong thầy giảng giải cho Phật tử chúng con hiểu rõ”.

Thầy từng nghe nói về mối bất hòa giữa bà Hằng và ông Yên, nhưng hoàn toàn không rõ sự thật ai đúng, ai sai. Đối với một sự việc nào đó, nếu chúng ta không biết mà nói càn, nói bừa sẽ dần mất uy tín và mang tội vọng ngữ. Ông bà ta ngày xưa thường răn dạy mình phải để ý đến lời ăn tiếng nói hàng ngày: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Đức Phật cũng đã dạy: “Muốn hiểu rõ một người nào đó, cần phải thân cận lâu dài và quán sát thật kỹ mới có thể đánh giá người đó tốt xấu như thế nào”.

Thường thường, khi thương mến hay yêu thích ai đó, chúng ta có xu hướng chỉ nhìn vào những điểm tốt của họ mà ít thấy ra những khuyết điểm mà họ đang mang. Người ta dù xấu, nhưng một khi đã thương thì xấu cũng thành tốt. Ngược lại, với người mình không thương, dù họ có tốt thế nào chúng ta cũng cho là xấu.

Trong cuốn Cổ học tinh hoa có chép câu chuyện về lẽ thương ghét ở đời, được biểu hiện thông qua những chuyển biến tình cảm và cảm xúc giữa Vua nước Vệ và Hàn Phi Tử, chính là Di Tử Hà, thầy xin tóm tắt như sau: “Ngày trước, Vua nước Vệ vốn rất thương Di Tử Hà. Một hôm, mẹ Di Tử Hà đau nặng, đêm khuya có người vào cung gọi, Di Tử Hà vội vã lấy xe của Vua về thăm mẹ. Theo pháp luật nước Vệ thời bấy giờ, ai đi xe của Vua mà không xin phép sẽ bị tội chặt chân. Thế nhưng, khi Vua nghe Di Tử Hà lấy xe của mình đi trong đêm mà không xin trước lại khen: “Di Tử Hà là người con hiếu thảo, hết lòng vì mẹ”. Vua không đề cập gì đến tội chặt chân. Lần nọ, Di Tử Hà theo Vua đi dạo ngoài vườn, thấy quả đào chín trên cây nên hái ăn thử, thấy ngon liền đưa phần còn lại mời Vua ăn. Vua nói: “Di Tử Hà yêu ta thật, đang ăn quả đào ngon miệng mà biết nhường cho ta”. Về sau, Vua không còn thương Di Tử Hà như trước. Lần nọ, Di Tử Hà phạm lỗi, Vua liền nổi giận rồi nói rằng: “Di Tử Hà trước đây dám tự ý lấy xe của ta đi, lại có lần dám xem thường cho ta ăn quả đào thừa. Những hành động này thật đáng bị tội”. Nói xong, Vua cho bắt Di Tử Hà đem ra trị tội”.

Tình cảm Di Tử Hà đối với Vua trước sau vẫn vậy, thế mà trước đó Vua khen, sau này Vua lại bắt tội. Tại sao lại như vậy? Người xưa có câu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì quả bồ hòn cũng méo”. Lúc Di Tử Hà được Vua yêu thương. việc làm đáng lẽ mang tội thì được khen là tốt. Khi Vua không còn thương Di Tử Hà nữa, dù phạm một tội nhỏ cũng thành to, những chuyện ngày xưa Vua khen giờ lại đem ra để tính thành tội nặng.

Thương thì tha thứ bỏ qua
Ghét thì chuyện bé thổi ra to đùng.

Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra bài học gì? Đó là yêu thì tốt mà ghét thì xấu. Dân gian có câu:

Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

Khi yêu một người, chúng ta không chỉ yêu bản thân họ mà còn yêu cả những gì họ sở hữu, chẳng hạn căn nhà, đường đi, con chó, con mèo. Cũng vậy, khi chúng ta ghét một ai đó, mình không chỉ ghét người ấy mà còn ghét cả tông chi họ hàng của họ nữa.

Người nam và người nữ lúc mới thương nhau thấy cái gì của đối phương cũng đẹp, cũng hay. Ngoại hình xấu xí, tính tình kỳ khôi cũng vẫn thấy tốt. Trong nhạc phẩm phổ nhạc Em cứ hẹn của nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm, lấy cảm hứng từ bài thơ Ngập ngừng của thi sĩ Hồ Dzếnh, có câu hát rất nổi tiếng: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, đời mất vui khi đã vẹn câu thề”. Tại sao tình chỉ đẹp khi còn dang dở? Vì khi hai người mới yêu nhau, họ nhìn nhau thấy cái gì cũng đẹp. Người con gái thấy người con trai tài ba, phong nhã, lịch thiệp, hiền lành. Người con trai thì thấy sắc đẹp cũng như sự dịu dàng, đoan trang, nhu mì, dễ thương của người con gái. Họ yêu nhau qua một vài nét đẹp cũng như những gì mà đối phương thể hiện ra bên ngoài. Khi đã yêu, dù người thương có chút khiếm khuyết họ cũng không để tâm mà sẵn sàng bỏ qua tất cả. Lúc này, người thương là số một, là đẹp nhất trên đời. Lỡ chuyện tình dang dở, họ cảm thấy tiếc nuối cho những gì chưa trọn vẹn, những ký ức đẹp đẽ thuở ban đầu đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tim mỗi người. Vậy tại sao đời mất vui khi đã vẹn câu thề? Vì khi đôi lứa nên vợ nên chồng, về sống chung một mái nhà, những tính xấu và tính tốt của mỗi người mới thật sự bộc lộ. Chàng ăn chơi, phóng túng, trăng hoa, nóng nảy, ngang ngược. Nàng thì lười biếng, nhiều chuyện, đố kỵ, ganh ghét. Lúc này, đôi bên không còn thấy được cái đẹp trong nhau như “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”, cả hai bắt đầu khó chịu về tính tình của nhau.

Ban đầu, gia đình chỉ vài ba lời qua tiếng lại, về sau vợ nói chồng không nghe, chồng nói vợ không nghe từ đó xảy ra những xung đột, cãi vã, đánh nhau, dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Lúc mới yêu, bốn mắt nhìn nhau lòng rạo rực, sướng run người mỗi khi được gần nhau. Đám cưới xong, bốn mắt nhìn nhau như tóe lửa, lòng muộn phiền khi phải sống chung. Hồi mới yêu nhau, một ngày không gặp như ba năm xa cách. Lấy nhau về, mỗi ngày gặp mặt như cái gai trước mắt, muốn nhổ bỏ đi mà không thể được. Khi yêu cái gì cũng tốt, hết yêu rồi cái gì cũng thành xấu.

Dân gian Việt Nam có bài ca dao khá hay:

Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những ra cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.

Yêu là vậy! Không có lỗ mũi người nào có đến mười tám gánh lông, nhưng dân gian khéo ví von cho người mũi to. Người phụ nữ mũi to chắc hẳn sẽ không đẹp. Thế nhưng, chồng yêu nên vẫn khen đẹp như râu rồng, vì rồng lỗ mũi to mới đẹp. Người ngủ ngáy thì gây phiền cho người xung quanh, nhưng chồng đã yêu nên lại nói ngáy cho vui cửa vui nhà. Phụ nữ hay ăn quà vặt là không tốt, chồng yêu khéo nói ăn quà vặt sẽ đỡ tốn cơm. Trên đầu những rạ cùng rơm chỉ cho những người ở bẩn, vì quá yêu nên người chồng lại thấy vợ mình như có hoa thơm rắc đầu. Đó chính là những minh chứng cho câu nói “thương nhau củ ấu cũng tròn”. Nhưng biết đâu một ngày xấu trời nào đó, người chồng hết thương thì sao? Anh chồng sẽ chán ngán thở dài: “Ai đời, người nữ nào lại có cái mũi to như mũi lân, cái mũi này chỉ có hà bá thương, chứ người nào mà thương cho được! Vợ gì mà nằm xuống đã ngáy điếc tai, không cho ai ngủ hết. Đàn bà gì lại ăn hàng ăn quán, ăn vụng chồng con như vậy còn ra thể thống gì, đúng là hư thân mất nết. Phụ nữ mà để cho thân thể dơ bẩn, hôi hám thì có xứng đáng ở trong căn nhà này không?”. Có chăng, khi ghét nhau rồi thì “bồ hòn cũng méo” , điều gì cũng có thể khiến con người ta nhàm chán, chê bai.

Theo thầy nghĩ, bà Hằng với ông Yên có lẽ cũng từng một thời thân thiết, quý mến nhau nên mới cùng làm thiện nguyện. Vì lòng thương mến, chắc hẳn thời gian đầu họ cũng dành cho nhau những lời ca ngợi, tán dương, nhưng về sau đôi bên xảy ra bất hòa và mâu thuẫn nên mới nảy sinh những ồn ào rồi thưa kiện. Tất cả đều do sự yêu và ghét của con người, từ đó mà sinh tâm phân biệt tốt - xấu, khen - chê. Giống như câu chuyện Di Tử Hà và Vua nước Vệ, lúc còn yêu thương Vua nâng niu trân trọng, lúc hết thương cạn nhớ Vua lạnh nhạt vô cùng, tìm cách xử tội Di Tử Hà.

Câu hỏi của Phật tử còn đề cập đến vấn đề nhân quả của lời nói ác như thế nào?

Ở đây, thầy sẽ không nói riêng về bà Hằng, hay bà A, bà B, bà C nào, mà chỉ trình bày chung về nhân quả của lời nói ác. Sau khi nghe về quả báo của lời nói ác, người nào thấy mình đã phạm phải sai lầm thì cố gắng sửa đổi. Thầy cũng không có ý phê bình hay chỉ trích cá nhân nào.

Mình gieo hạt giống xuống đất, khi đủ các duyên như khí hậu, độ ẩm, hơi ấm và thời tiết thích hợp, một thời gian sau hạt giống sẽ nảy mầm, lên cây rồi ra hoa, kết quả. Nếu chúng ta gieo hạt giống mướp đắng, ớt cay, chanh chua, mít ngọt thì nó sẽ lên cây và ra trái đắng, cay, chua, ngọt theo từng loại. Nhân nào thì quả nấy rất rõ ràng, không có chuyện gieo hạt giống đắng mà ra quả ngọt, hoặc gieo hạt giống ngọt mà ra quả đắng.

Chúng ta ném mạnh một quả bóng vào tường nó sẽ dội mạnh lại mình; chúng ta ném nhẹ vào tường, nó dội nhẹ lại mình. Cũng vậy, khi chúng ta nói ra một lời tốt với người khác, người ta cũng sẽ nói lời tốt với mình; khi chúng ta nói ra một lời xấu với mọi người, mọi người cũng sẽ nói lời xấu với mình. Chúng ta nói xấu người, soi mói đời tư của người, người cũng sẽ tìm cách nói xấu mình, soi mói đời tư của mình. Chúng ta chửi bới người một, thì người cũng sẽ tìm cách chửi bới lại mình hai. Chúng ta đặt điều vu khống cho người, thì người cũng sẽ tìm cách đặt điều vu khống lại mình. Ngoại trừ các bậc Thánh, không ai là hoàn toàn trong sạch, không có lỗi lầm. Nếu mình vẫn còn lầm lỗi thì không nên bươi móc lỗi lầm của người khác. Người xưa có câu:

Chân mình còn lấm mê mê
Lại đi cầm đuốc mà rê chân người.

Thật ra, một người có phẩm chất đạo đức hoàn toàn trong sạch, tốt đẹp sẽ không bao giờ bươi móc, nói xấu người khác. Khi cố ý nói xấu người, chính mình là người xấu trước. Vì sao? Việc bươi móc lỗi người khác là một hành động xấu. Khi nói xấu một người, trước tiên mình phải có ý nghĩ xấu về người đó, rồi từ miệng mới thốt ra những lời tiếng không tốt. Nếu người ta nghe được, họ sẽ sinh tâm bực tức, phiền não, thù oán. Quả báo hiện tiền của việc nói xấu người khác chính là gây thù chuốc oán với người. Điều này không chỉ gây nên quả báo xấu cho bản thân mà còn có thể gây ảnh hưởng đến những người thân của mình. Thí dụ, người mẹ hay người vợ nói xấu kẻ khác, chồng con cũng bị ảnh hưởng. Khi chồng hoặc con đi đâu, làm gì, mọi người sẽ xì xầm: “Anh đó là chồng (hay là con) của bà nhiều chuyện, thích nói xấu người khác”. Điều này sẽ khiến cho người thân của chúng ta tự ti, mặc cảm, khổ đau, có khi không dám ra đường, không dám nhìn mặt bạn bè. Có những người chồng, người con không chịu được áp lực dư luận nên rơi vào trạng thái trầm cảm hoặc suy nhược thần kinh.

Đối với những người thô lỗ, vu khống hay nói xấu người khác, hiện đời bị mọi người khinh chê, xa lánh, thù oán, có thể bị pháp luật trừng trị, phạt tiền hoặc tù tội. Đời sau phải nhận lãnh quả báo khổ đau, nếu được sinh làm người thì tàn tật, câm điếc, đui mù,... thường phải nghe những lời chửi rủa, bị nhiều người ganh ghét, chê trách, vu oan.

Chúng ta thấy quả báo của việc nói ác, nói thô lỗ, nói vu khống người khác thật đáng sợ, làm ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình, xã hội, không chỉ gây họa cho đời này mà cả đời sau. Do vậy, người học Phật cần phải hết sức cẩn trọng trong từng lời nói, đặc biệt tránh chuyện bàn tán không hay về người khác. Thế nên ông bà ta từng căn dặn: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”.

Trong kinh Tăng Chi Bộ, bài kinh Người Nói Như Phân có đại ý như sau: “Có ba hạng người ở đời. Hạng người nói như mật, hạng người nói như hoa và hạng người nói như phân. Hạng người nói như mật là khi nói ra, người nghe cảm thấy hoan hỉ như nuốt mật ngọt. Hạng người nói như hoa là khi nói ra, người nghe cảm thấy thích thú như ngửi mùi thơm. Hạng người nói như phân là khi nói ra, người nghe cảm thấy khó chịu như ngửi phải mùi hôi thối. Nói như mật, nói như hoa là nói chân thật, nhẹ nhàng, thương yêu, tốt đẹp, hòa nhã, ái ngữ, xây dựng, hòa hợp. Còn nói như phân là nói dối trá, đâm thọc, ác ngôn, xuyên tạc, vu khống, mắng nhiếc, chửi mắng người”. Chúng ta nên học cách nói như mật, nói như hoa hay nói như phân? Mình thử tưởng tượng một hầm phân khi mở nắp ra, mùi bốc lên hôi thối thì không ai dám đến gần. Người nói như phân cũng vậy, chẳng ai dám thân cận, không ai dám đến gần.

Có ai muốn người khác nói xấu, đâm thọc, xuyên tạc mình hay không? Chắc hẳn không ai muốn điều đó xảy ra. Như vậy, người khác cũng sẽ không muốn nghe mình nói xấu, nói thô lỗ, nói xuyên tạc, nói vu khống với họ.

Lần nọ, Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Có một từ nào có thể hướng dẫn chúng ta ăn ở trong suốt cuộc đời không?”. Khổng Tử đáp đó là chữ “thứ”. Khi Tử Cống hỏi ý nghĩa của chữ này, Khổng Tử đã trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Nghĩa là, điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Mình không thích người ta nói xấu mình, thì bản thân cũng không nên nói xấu người khác. Chúng ta muốn nghe lời nói tốt hay lời nói xấu? Ai cũng muốn nghe lời nói tốt. Vậy tại sao mình không nói như mật, như hoa với người khác? Khi nghe một lời tốt đẹp, mình cảm thấy vui và quý mến người nói. Tại sao mình không nói lời tốt đẹp với người để người được vui?

Ở đời, chúng ta nên thêm bạn bớt thù chứ đừng thêm thù bớt bạn. Mỗi ngày, mình hãy học cách nói những điều tốt đẹp, để dù đi đâu, làm gì, thậm chí lúc nhắm mắt xuôi tay, khi nhắc đến tên mình mọi người đều quý mến và thương yêu. Chẳng nên gieo rắc thù hận, để rồi khi sống người ta nguyền rủa, lúc chết tiếng xấu lưu lại muôn đời. “Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Lời nhắc nhở trong câu ca dao xưa thật quý vô ngần. Bia đá tuy cứng nhưng rồi sẽ hao mòn theo thời gian. Tiếng xấu thì nghìn năm vẫn còn lưu truyền trong nhân thế. Ngày nay, chúng ta nói một lời ác và lời nói đó được đăng tải, chia sẻ lên các trang mạng xã hội như Youtube, Zalo, Facebook, Twitter, Viber,... hoặc đơn giản là gieo vào đầu người khác rồi truyền từ người này sang người kia, những lời nói đó sẽ được lưu lại mãi về sau.Trong thời đại công nghệ số, chúng ta phải hết sức cẩn trọng khi phát ngôn. “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”, nghĩa là bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra. Khi mình nóng giận, bực tức thì không nên nói, vì lời nói lúc nóng giận thường rất khó nghe và sẽ trở thành rắn độc, dao búa, hầm phân gây đau khổ cho người và tổn hại cho mình.

Lời nói ác là gì? Là lời nói không đúng sự thật, nói đâm thọc, nói thô lỗ, nói xuyên tạc, nói vu khống. Là miệng mình xấu, miệng mình là dao búa, miệng mình là hầm phân. Quả báo của lời nói ác là gì? Hiện đời sẽ mất uy tín, không ai tin vào lời nói của mình, bị mọi người xa lánh, oán thì, tìm cách hãm hại, có khi bị pháp luật xử phạt. Quả báo đời sau như thế nào? Nói không ai tin, bị người chê trách, vu oan, ghen ghét, khinh bỉ, bị sứt môi, miệng hôi, câm, ngọng.

Thầy xin kể một câu chuyện về quả báo ác khẩu rất đáng để chúng ta suy ngẫm: “Gia đình bà Thơm có hai người con trai. Người con cả học rất giỏi, nhưng mấy năm trước trên đường lái xe về nhà không may gặp tai nạn qua đời. Người em vừa mới tốt nghiệp đại học, vì buồn chuyện tình cảm nên cũng tự thiêu chết. Riêng bà Thơm, do mắc bệnh ung thư lưỡi nên phải mổ ở cổ và lưỡi, không thể nói chuyện, nằm trên giường đau đớn, quằn quại. Khi bệnh ung thư tiến triển đến giai đoạn cuối, mỗi khi bà mở miệng là mùi thối bay ra rất kinh khiếp, không ai dám lại gần. Hai người con trai chết, bây giờ đến bà cũng qua đời. Trong tang lễ, chỉ còn một mình người chồng, nhìn hoàn cảnh gia đình bà Thơm ai cũng nhỏ lệ xót thương.

Chồng bà Thơm là con cả trong gia đình. Một hôm, người em trai rời bỏ quê đã mười năm qua trở về, đưa cho người anh lá thư của vợ mình. Sau khi đọc xong, ông ngã quỵ xuống và bật khóc, hướng về người em cúi lại rồi nói lời xin lỗi. Tại sao sau khi đọc thư của người em dâu, chồng bà Thơm lại ngã quỵ xuống và nói lời xin lỗi em trai? Trong thư, người em dâu kể lại:

“Bà Thơm lúc sinh tiền vì muốn tranh giành gia sản của cha mẹ chồng nên đã đặt điều nói xấu, vu khống chị em bạn dâu của mình ngoại tình với người nọ người kia, khiến cho cha mẹ chồng thù ghét, người chồng hiểu lầm, dẫn đến gia đình lục đục, mất đi hạnh phúc”.

Quá đau khổ vì bị hàm oan nên cô đã cắt máu tay, viết lá thư để lại rồi uống thuốc rầy tự tử. Khi người em biết được sự thật thì rất đau lòng, nhưng không thể nào làm sáng tỏ sự việc, vì hồi đó thế lực của bà Thơm rất mạnh. Người em đành phải đưa hai con đến nơi khác lập nghiệp, quanh đi quẩn lại đã hơn mười năm. Nay bà Thơm mất, người em mới trở về và cho người anh biết rõ nỗi hàm oan của vợ mình”.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy bà Thơm lúc trẻ vốn là một người xinh đẹp nhưng tính tình thâm độc, vì muốn lấy lòng cha mẹ chồng để được thừa hưởng toàn bộ tài sản nên đã nói xấu, đâm thọc, vu khống người vợ của em chồng, dẫn đến việc người em dâu không chịu được nỗi oan ức mà uống thuốc rầy tự tử. Quả báo của bà Thơm như thế nào? Hai người con trai chết thảm. Bà bị ung thư lưỡi phải mổ và chịu sự hành hạ đau đớn, miệng hôi thối cho đến chết. Người nào lấy phải người vợ như bà Thơm sẽ vô cùng bất hạnh, gây nên những tai họa khôn lường cho cả gia đình.

Người xưa có câu: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Thông thường, người đàn ông nào cũng mong muốn lấy được người vợ xinh đẹp. Tuy nhiên, tìm được cô vợ đẹp người lại đẹp nết thì thật không dễ dàng. Nếu lấy người vợ đẹp người mà xấu nết, miệng toàn nói ra những lời như rắn độc, dao búa, hầm phân thì trước sau gì gia đình đó cũng rơi vào bất hạnh, khổ đau như câu chuyện của gia đình bà Thơm. Dân gian xưa có câu: “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà”. Nhưng theo thầy nghĩ, đàn ông miệng rộng ám chỉ cho người nhiều chuyện, ác khẩu thì cũng khiến cửa nhà tan hoang, không riêng gì đàn bà.

Về vụ việc của bà Hằng và ông Yên, thầy từng nghe nói đến nhưng không tìm hiểu nên không biết ai đúng, ai sai. Thầy nghĩ rằng, thời gian sẽ trả lời tất cả. Sự thật muôn đời vẫn là sự thật. Ai gieo gió người ấy sẽ gặt bão. Là người Phật tử, chúng ta không nên để tâm thương ghét chi phối rồi nói sai sự thật. Nếu mình thương một người nào đó mà họ làm sai mình lại khăng khăng cho là đúng, còn bào chữa cho cái sai của họ thì mình đã phạm tội ác khẩu.

Hiện nay, những sự việc được đang lên mạng xã hội khó mà biết được đâu là thật, đâu là giả. Hiệu ứng đám đông có thể gây ra những hệ lụy rất lớn, khi thích người nào thì mọi người sẽ bênh vực và cùng nhau ca ngợi người đó, dù họ làm sai; hễ ghét người nào là hùa nhau chê bai, chửi bới, nói xấu, vu khống, cho dù người đó làm đúng. Thậm chí, họ cũng hành xử như vậy với những người tu hành. Nghe họ nói những lời văng tục, vu khống người xuất gia mà thầy thấy thương cho hành động vô minh của những người này. Người nào gieo nhân ác chắc chắn sẽ phải gặt lấy quả ác, nhân quả không chừa một ai. Hãy cẩn thận giữ miệng! “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ tát khi nói gì, làm gì cũng đều nghĩ đến hậu quả nên các ngài rất dè dặt cẩn trọng. Chúng sinh do vô minh nên tha hồ nói tục, chửi bậy, vu khống hết người này đến người khác. Khi quả báo của ác nghiệp đến, họ có than trời trách đất cũng đã muộn màng. Thầy mong mọi người hãy khắc ghi bài học ngàn vàng này vào trong tâm khảm: “Phàm làm việc gì, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó”.

Đối với người đã quy y Tam bảo, thọ trì Tam quy và Ngũ giới, chúng ta phải biết giới thứ tư là giới không vọng ngữ. Người nói sai sự thật, nói lời ác, nói thô lỗ, nói vu khống chính là phạm vào giới vọng ngữ. Chúng ta phải cố gắng giữ gìn, không nên vi phạm. Khi mình đã phạm thì chắc chắn sẽ phải chịu quả báo khổ đau. Mặc khác, khi đã trở thành Phật tử, chúng ta phải tôn kính Tăng bảo, nếu chư Tăng làm sai thì tự thân các thầy phải chịu trách nhiệm về nhân quả của việc mình làm. Người đệ tử chân chính sẽ không bao giờ nói xấu hay phỉ báng thầy mình. Ví như, cha mẹ chúng ta có làm điều lầm lỗi, phận làm con cũng không được bêu xấu hay chỉ trích cha mẹ. Đó chính là đạo lý làm người, làm học trò mà chúng ta cần phải khắc ghi.

Ngày 09 tháng 02 năm 2022